Người
Phật tử chân thật phải nên biết triết lý Phật Giáo, khoa học Phật Giáo. Bằng
trái lại việc thực hành tôn giáo chỉ như tập tục, theo thói quen không có ý
nghĩa gì nhiều.
Các anh chị em tâm linh thân mến, đặc biệt với cộng đồng
Tăng Già Việt Nam, và tôi nghĩ có một số vị sư cô ở đây, Tì kheo ni, có phải
không?
Tôi thật sự vui mừng với lần thứ hai tôi thăm viếng nơi này,
với một ngôi chùa mới và rất lớn, hết bao nhiêu tiền đấy? (mọi người
cười)
Tôi nghĩ Đạo Phật là một tôn giáo cổ xưa từ Ấn Độ rồi lan
truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam pu chia, Lào, Việt Nam, Trung Hoa,
Nhật Bản, Đại Hàn rồi thì sau nàyTây Tạng, Mongolia và một bộ phận ở Liên Bang
Nga, những vùng này theo Đạo Phật, và Ấn Độ là chiếc nôi của Đạo Phật nhưng đại
đa số quần chúng là Ấn Giáo, cũng như Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, và những đạo
khác.
Nhưng thế nào đi nữa, chúng ta đang ở trong thế kỷ 21,
kỷ thuật phát triển cao độ. Tôi nghĩ trong một hay hai thế kỷ
qua. Tất cả mọi nổ lực, tất cả mọi năng lượng đều tập trung trong sự phát
triển kinh tế, về tiền (cười). Bây giờ tôi nghĩ, ngay chúng ta thật sự mở
rộng trong yêu cầu của tiền, tất cả những sự lủng đoạn, tất cả những kỷ thuật
nhơ bẫn nhầm để kiếm ra tiền. Có phải thế không? Tôi nghĩ tiền thật
sự đầu độc nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Tôi thật sự nghĩ thế!
Và rồi trong khi ấy không chỉ nguyên tắc đạo đức bị suy đồi mà tiền cũng làm
gia tăng ghen tỵ, nghi ngờ và rồi thì là thất vọng và đưa đến kết qua giận dữ,
bạo động.
Vậy thế nào đi nữa, một điều rất rõ ràng, chỉ đơn thuần vật
chất sẽ không mang đến hòa bình nội tại, điều ấy là chắc chắn. Bởi vì
tiền mang đến tiện nghi làm thoải mái thân thể chứ không phải tâm hồn.
Trong siêu thị nếu quý vị thử tìm mua sự bình an của tâm
hồn, không thể được. Hay tất cả những cửa hàng dụng cụ kỷ thuật, nếu quý
vị hỏi mua một khí cụ để làm an ổn tinh thần; không [không thể có]. Sự
hòa bình của tâm tư phải đến từ bên trong, bởi vì đa số những sự quấy rầy an
bình nội tại là cảm xúc của chúng ta. Không phải những kẻ thù ngoại tại,
không phải những kẻ gây rối bên ngoài mà những yếu tố tàn phá tâm thức chúng ta
chính là những cảm xúc tiêu cực của chính chúng ta. Vậy thì một cách tự
nhiên, một cách hợp lý, một phương pháp hiệu quả để làm giảm thiểu những cảm
xúc tàn phá phải được phát triển trong tâm thức, từ chính những cảm xúc ấy.
Nên ngày nay tôi cũng nói với mọi người, trong vài nghìn năm
trước, tôi nghĩ bốn, năm nghìn năm, chúng ta mở mang tín ngưỡng, và chúng ta
đặt trọn niềm hy vọng của chúng ta vào tín ngưỡng, bất cứ khi nào chúng ta gặp
khó khăn, chúng ta [chấp tay lại] cầu nguyện đến Thượng Đế hay điều gì đấy,
điều gì đấy huyền bí. Rồi thì ba trăm năm trở lại đây khoa học, kỷ thuật
phát triển. Rồi khoa học, kỷ thuật lập tức mang đến cho chúng ta ... tiện
nghi sẳn sàng, mọi thứ trở nên dễ dàng nên con người tự nhiên chú ý hơn với
khoa học và kỷ thuật hơn là tín ngưỡng. Rồi thì sau này vào thế kỷ 20 qua
kinh nghiệm cuối cùng chúng ta nhận ra sự giới hạn của giá trị vật chất.
Tôi biết một số gia đình rất giàu có tôi nghĩ là tỉ phú,
những người ấy ở trình độ con người là những người rất không vui. Họ có
hàng triệu triệu đô la nhưng thất bại trong việc mang niềm vui nội tại, rất rõ
ràng.
Và rồi một vấn đề khác nữa, trong những nhà khoa học,
kiến thức của họ về não bộ, về thần kinh, những thứ này rất phát triển.
Rồi cuối cùng họ thích thú về vấn đề cảm xúc là gì? Tâm thức là gì? Bởi
vì y học, họ chỉ chú ý đến mãng tâm thức thật sự rất quan trọng đến sức khỏe
lành mạnh, cũng như hồi phục từ bệnh tật, từ giải phẩu, một mảng tâm thức...
rất quan trọng đối với họ. Cho nên bây giờ y học, cũng như những nhà
chuyên môn về não bộ. Một số nhà khoa học hàng đầu thật sự biểu lộ sự hấp
dẫn với vấn đề, cảm xúc là gi? Mối quan hệ giữa cảm xúc và não bộ là thế
nào?
Bây giờ, những ngày này, trong những nhà khoa học ưa thích
việc rèn luyện tâm thức với giải phẩu não bộ, với những chất kích thích
trong não bộ. Qua việc rèn luyện tâm thức, thật sự có thể thay đổi,...Lần
đầu tiên họ khám phá ra việc này. Nên qua việc rèn luyện tâm thức
ngay cả những bộ phận vật lý có thể thay đổi. Vì vậy, hai nhân tố,
từ kinh nghiệm giới hạn, hay giá trị vật chất. Và mặt khác sự nghiên cứu
khoa học, bắt đầu tập trung vào vấn đề, tâm thức là gì? Làm thế nào để
thay đổi tâm thức chúng ta? Thay đổi cảm xúc chúng ta như thế nào?
Vì những nhân tố này, có những biểu lộ, đặc biệt trong những
người trẻ tuổi đã bắt đầu khuếch trương những quan tâm về các giá trị nội tại,
tâm linh. Tôi nghĩ đấy là hình ảnh thế giới của thế kỷ 21. Rồi thì
tôi cũng nghĩ con người ở khắp mọi nơi, đặc biệt ở Âu châu, và Hoa Kỳ, tôi nghĩ
là thật sự chán ngấy với bạo động, Úc châu so sánh chắc khá hơn (cười).
Nên con người, tôi nghĩ con người ở buổi đầu thế kỷ trước,
khi quốc gia tuyên chiến với lân bang, dân chúng cả nước, tự hào, không thắc
mắc gì, tham gia nổ lực chiến tranh. Tình thế như vậy hoàn toàn thay đổi
và cuối thế kỷ. Và bắt đầu thế kỷ 21, thí dụ khi Hoa Kỳ sắp bắt đầu chiến
tranh với Iraq, bao nhiêu người từ Hoa Kỳ đến Úc Đại Lợi phản đối bạo động và
muốn hòa bình qua biểu tình. Và dĩ nhiên,nhiều người quan tâm, những quốc
gia quan tâm chống lại chiến tranh, chống lại bạo động, chống lại việc sử dụng
bạo lực. Nên họ thật sự khao khát hòa bình. Hoàn toàn chán ngấy với
bạo động. Vì thế, một lần nữa, câu hỏi là, làm thế nào mang hòa bình đến?
Hòa bình không có nghĩa là không có những rắc rối
khác. Cho đến khi mà con người còn tồn tại trên hành tinh này, những vấn
nạn nào đấy bắt buộc phải xảy ra. Do bởi nhận thức của con người, lòng
tham của loài người, khao khát của loài người. Nên vấn nạn sẽ tiếp tục
tồn tại. Bây giờ chúng ta cần phương pháp thực tiển để giải quyết xung
đột, sự không đồng ý này. Nên đấy là đối thoại. Tôi thường nói với
mọi người, thế kỷ 20 trở thành thế kỷ của tắm máu, căn cứ theo lịch sử, khoảng
hai trăm triệu người bị giết một cách bạo động qua chiến tranh, một con số đáng
kinh hoàng.
Nếu một cuộc chiến lan rộng sử dụng vũ khí nguyên tử, mà nó
có thể mang đến hòa bình, giảm thiểu rắc rối thì cũng okay, nó cũng chính
đáng. Nhưng không phải như thế. Chỉ có khổ đau. Cho nên, bây
giờ thế kỷ 21 chúng ta phải làm cho nó là thế kỷ của đối thoại.
Nhằm để mang đến đối thoại, chúng ta cần sự tôn trọng tâm
linh đối với quyền lợi của người khác. Không chỉ là sự quan tâm của tôi,
sức mạnh của tôi và dửng dưng với sự quan tâm của người khác thì làm sao đối
thoại. Nên trong sự tôn trọng ấy, tinh thần chân thành với tình anh chị
em, toàn thể gần bảy tỉ người có thể xem như những người anh chị em, chúng ta
phải chăm nom đến sự quan tâm của họ. Với loại thái độ như thế thì sự đối
thoại đầy đủ ý nghĩa mới có thể phát triển.
Nên trong sự quan tâm ấy, căn bản truyền thống ấy... là một
khả năng vô hạn để đem đến tình anh chị em chân thành. Mọi truyền thống
tôn giáo đều có cùng khả năng, cho dù khác biệt triết lý. Có những tôn
giáo hữu thần như Ki Tô Giáo, ... niềm tin chủ yếu của họ là Thượng Đế. Những
tín ngưỡng vô thần như Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, và một số tư tưởng cổ truyền khác
nữa của Ấn Độ không có khái niệm Thượng Đế, không có đấng tạo hóa, nhưng tự
chính chúng ta là tạo hóa. Nên triết lý là rất khác biệt, nên theo quan
điểm của những tôn giáo hữu thần, những Phật tử chúng ta là người không có đức
tin (tín ngưỡng vô thần).
Nên tất cả mọi tôn giáo, mặc dù khác biệt triết lý nhưng
cùng mang một giáo huấn, cùng một sự thực hành về từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao
dung, tự giác. Tất cả những thứ này là cùng như nhau về thực hành, cùng
giống nhau trong một thông điệp. Nên tất cà mọi tôn giáo quan trọng đều
có cùng khả năng để hổ trợ con người.
Bây giờ về Phật Giáo, Đạo Phật ngày nay tôi nghĩ, như
tôi đã đề cập trước đây, cũng bao hàm những sự thực tập về từ ái, bi mẫn, tha
thứ, bao dung, ... như những tôn giáo quan trọng. Rồi thì khía cạnh triết
lý rất phức tạp. Như Đại Học Tu Viện Na Lan Đà, không chỉ là một trung
tâm Phật Giáo, nhưng là một trung tâm chuyên môn, một học viện hàn lâm.
Và nhiều đạo sư Na Lan Đà, tôi thường diễn tả là những giáo sư của Na Lan
Đà. Những đại sư này đã sáng tác, thật sự là những chủ đề chuyên môn, các
ngài tiến hành khảo sát: Thực tại là gì? Bản chất là thế nào? Bản
chất của vật chất, bản chất của tâm thức. Phần ấy tôi cho là khoa
học. Không phải là tôn giáo mà là khoa học.
Trong ba mươi năm qua, ô không, trong khoảng bảy năm qua,
tôi đã dấn thân một cách nghiêm túc với những nhà khoa học hiện nghiên cứu xa
hơn về tâm thức, về cảm xúc, kiểm soát cảm xúc này như thế nào. Bây giờ
khoa học, thí dụ ở Hoa Kỳ, Đại Học Wisonsin, Emory và Stanford và một vài đại
học nữa, họ thật sự tiến hành công việc nghiên cứu về tâm thức theo sự giải
thích của Đạo Phật về tâm. Họ đã tìm thấy những thông tin hữu ích từ tài
liệu cổ điển của Ấn Độ về vấn đề này, không chỉ Phật Giáo mà cũng của Ấn Giáo.
Cho nên có một số người vốn duy trì khoảng cách với bất cứ
tôn giáo nào, nhưng trong con mắt của họ Đạo Phật bây giờ là một ngoại
lệ. Bởi vì nó không nhất thiết liên hệ với những khái niệm của Đạo Phật
về kiếp sống tới, nghiệp báo,... những thứ này, nhưng mà là về khoa học
tâm thức của Phật Giáo, về cảm xúc. Nên hoàn toàn rõ ràng rằng, theo kinh
nghiệm trong ba mươi năm qua của tôi, bây giờ rất rõ ràng, khoa học Phật Giáo
chắc chắn có thể có những cống hiến nổi bật trong khoa học hiện đại liên hệ đến
tâm thức cảm xúc, những thứ này.
Bây giờ, đối với người Việt Nam, một cách truyền thống là
một quốc gia Phật Giáo. Về truyền thống Phật Giáo, có truyền thống tiếng
Phạn và tiếng Pali, chúng ta cùng theo truyền thống Phạn ngữ, chúng ta cùng
theo truyền thống Na Lan Đà, những học giả Na Lan Đà như Mã Minh, Long Thọ, Vô
Trước,..., tất cả những đạo sư Na Lan Đà này, những giáo sư này, chúng ta cùng
kế tục giáo huấn của những vị này.
Và một khía cạnh khác, người Việt Nam đã trải qua những thời
điểm khó khăn, chúng tôi cũng thế (cười), trong ý nghĩa ấy chúng ta thật sự là
những người anh chị em (cười). Những thời gian thay đổi, có những vị tăng
ni từ Việt Nam đến Ấn Độ để học hỏi Giáo huấn, nghe giảng dạy ở đấy.
Dường như thay đổi, và ngay cả có những thân quyến của các lãnh tụ Cộng Sản đã
đến đấy. Nên sự việc đang thay đổi. Nên thế nào đi nữa những người
Việt Nam nào sống trong những quốc gia như Pháp, Mỹ, cũng như Úc, bất cứ quý vị
sống nơi nào, quý vị mang trong mình truyền thống của quý vị, tâm linh của quý
vị. Do thế, ở Úc Đại Lợi, vốn là một quốc gia không phải theo Đạo Phật,
vốn là một đất nước Ki Tô Giáo, nhưng quý vị đã tìm ra một nơi để thiết lập
chùa viện của quý vị, nhằm để giữ gìn tâm linh Phật Giáo của quý vị, tôi thật
cảm phục.
Một khác biệt nhỏ là Việt Nam là một đất nước rất nóng
nhưng quý vị mặc áo tay dài. Còn Tây Tạng là một đất nước rất mát, nhưng
tay tôi để trần - không có tay áo (ngài đưa tay phải ra - mọi người cười).
Bây giờ, bất cứ những Phật tử nào, dù là người Hoa, Nhật,
Hàn, Việt, Thái, Tích Lan, Miến Điện, và Tây Tạng, Mongolia... tôi luôn luôn
tuyên bố rằng: Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử
của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này
rất căn bản.
Một cách truyền thống, chúng ta tự cho là Phật tử nhưng thật
sự không biết Đạo Phật là gì. Tôi thường đùa những Phật tử Trung Hoa rằng, thật
không phải [đúng nghĩa Phật tử khi chỉ chấp tay và nói] A Di Đà Phật, A Mi Tò
Phù, A Mi Tò Phù! (Cười). Và với người Tây Tạng tôi thường đùa với họ
rằng, trì niệm một mật ngôn nổi tiếng, Lục tự đại minh chơn ngôn của Quan
Âm, Án Ma Ni Bát Di Hồng, Om Mani Padme Hum, Om Mani Padme Hum,..., khi quý vị
đọc nhanh, giống như, om moni, moni, moni,... (mọi người cười) âm thanh ấy nghe
giống như money, money,...(money = tiền). Cho nên, không có kiến thức,
không biết ý nghĩa và rất thường khi tôi gặp những Phật tử Ấn Độ hay Tây
Tạng..., những sinh viên, khi tôi hỏi họ: - Tôn giáo của quý vị là gì? Họ trả
lời: Phật Giáo. Sau đó tôi hỏi, Phật là gì? Không có câu trả lời.
Không biết. Đức Phật được xem như chỉ là một nhân vật lịch sử. Thế
ấy là không đủ. Quý vị phải biết Đạo Phật thật sự là gì! Và cũng
như những người Ki Tô, quý vị phải biết điều Chúa Giê-su dạy thật sự là
gì! Chỉ tự nhận là Ki Tô hữu, làm dấu thánh giá là không đủ.
Vì thế, như Phật Pháp mà tôi đã đề cập phía trước là một
triết lý phong phú toàn triệt nên chúng ta phải học hỏi nghiên cứu những thứ
này.
Trước nhất là khoa học Phật Giáo, trên căn bản của khoa học
Phật Giáo rồi thì triết lý Phật Giáo phát triển, như hai chân lý, bản
chất vô thường, và duyên khởi tương sinh, những quan điểm triết lý này được
phát triển trên căn bản của thực tiển. Đấy là khoa học Phật Giáo.
Rồi thì điều này có thể thay đổi tâm thức chúng ta, có thể giảm thiểu cảm xúc
tàn phá, và cuối cùng có thể hoàn toàn tiêu trừ hoàn toàn những cảm xúc tàn
phá. Đấy là niết bàn, giải thoát, hay cứu độ.
Nên trên căn bản của khoa học, triết lý Phật Giáo,
nhận thức Phật Giáo phát triển, sau đó theo nhận thức Phật Giáo rồi thì thực
tập Phật Pháp. Do vậy, người Phật tử chân thật phải nên biết triết lý
Phật Giáo, khoa học Phật Giáo. Bằng trái lại việc thực hành tôn
giáo chỉ như tập tục, theo thói quen không có ý nghĩa gì nhiều.
Do thế, các anh chị em Phật tử của tôi, xin hãy học hỏi thêm
nữa. Và việc thăm viếng chùa viện và ở trước Đức Phật phát lời cầu khẩn,
trì niệm thì không đủ, chúng ta phải học hỏi những điều Đức Phật dạy bảo thật
sự là gì. Và học hỏi theo căn bản lời dạy của Đức Phật được soạn thảo chi
tiết bởi chư vị tổ sư Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân,... tất cả những đại sư của
Na Lan Đà giảng giải kỷ lưởng. Và nếu có thể, nghiên cứu Luận học Phật
Giáo, luận lý học, của các tổ sư Trần Na, Pháp Xứng, Nguyệt Xứng, Liên Hoa
Giới,... Trong Tạng ngữ, những luận điển của các ngài trên đã được dịch ra rất
tiện dụng. Tôi được nghe nói là trong đại tạng Trung Hoa không có những
dịch phẩm này, hoặc chỉ có một phần nào thôi, chưa được dịch ra hết. Hiện
tại đã có một số hoạt động để chuyển dịch ra Hoa ngữ, đã được bắt đầu
rồi. Cuối cùng, những luận điển này sẽ hiện diện bằng Hoa ngữ. Và
sau đó sẽ được diễn dịch dễ dàng sang Việt ngữ, Hàn ngữ và Nhật ngữ. Rõ
ràng chứ!
Xin hãy chú ý thêm trong việc học hỏi, nghiên cứu. Học hỏi,
nghiên cứu! Rồi thì đức tin căn cứ trên tri thức trọn vẹn, đức tin ấy sẽ
sâu sắc hơn nhiều, điều ấy là quan trọng!
Chân thành cảm ơn! Đấy là tất cả.
Tôi hy vọng sau này, chánh điện này không chỉ để cầu nguyện
mà cũng là lớp học, nơi để học tập. Tôi hy vọng như thế. Nên
lần sau đến đây, tôi hy vọng cũng thấy lớp học của quý vị. (Cười).
*
Nguyên tác: Dalai Lama visit Quang Minh Temple 2011
Ẩn Tâm Lộ ngày 7/6/2012
No comments:
Post a Comment