Total Pageviews

Saturday, February 2, 2013

Đức Đạt Lai Lạt Ma



                                         TRUYN PHÁP CHO PHT T NGA TI DELHI
 

Ngài nhấn mạnh rằng sự chuyển hóa tâm thức là trung tâm của thực hành Phật giáo, đó không phải là thực hành được thực hiện bằng ép buộc. Giáo pháp cần phải được tiếp cận tự nguyện, sử dụng trí tuệ để thấu hiểu tâm nguyện và các con đường dẫn đến mục tiêu giác ngộ tối thượng.
New Delhi, Ấn Độ, 24 Tháng 12 2012 – Trước thính chúng gần 1500 người, trong đó hơn 1 ngàn là người Nga, đã nhiệt thành cung đón, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng giọng ngài có bị khàn vì gần đây ngài đã thuyết pháp hơn 50 giờ trong hai tuần khi truyền một giáo pháp quan trọng tại Nam Ấn.
Ngài đã tán thán các vị khách tới từ Nga, chia sẻ với họ rằng trong quá khứ có rất nhiều Bậc thầy từ Buryat, Kalmykia và Tuva tới tu học tại Trung tâm Tây Tạng và đã thành tựu pháp. Đây là di sản đang được hồi sinh ngày hôm nay. Đồng thời, có những người khác, ban đầu quan tâm đến triết học Phật giáo và rồi trở thành Phật tử. Ngài chia sẻ rằng trong khi ngài thường khuyên mọi người hãy tiếp tục trì giữ tôn giáo mà họ đã theo từ khi mới sinh mặc dù đôi khi mọi người thấy Phật giáo có thể hữu ích hơn cho họ. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng điều quan trọng là không được đánh mất đi sự tôn kính đối với tôn giáo mà gia đình của mình đã thuộc về.
Về thực hành tâm linh, Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng cho dù quan điểm nhân sinh và thế giới của họ có từ góc độ triết học hay không, từ hữu thần hay không, thì tất cả các truyền thống tôn giáo đều đặt trọng tâm vào tình yêu thương và lòng bi mẫn. Ngài cho rằng nguồn gốc của mọi rắc rối đều xuất phát từ bản ngã. Các tôn giáo hữu thần có giải pháp là hướng trọn niềm tin nơi đấng tối cao thì Phật giáo đối trị bản ngã bằng thực hành vô ngã, tận trừ một bản ngã cố định, bất biến, và khuyên dạy chúng ta coi chúng sinh khác quan trọng hơn bản thân mình. Ngài dạy rằng một khi chúng ta đã hiểu các tôn giáo khác nhau đều có cùng chung mục tiêu thì chúng ta có căn cứ để thể hiện sự tôn trọng đối với các truyền thống tôn giáo không phân biệt.
"Gần đây tôi đọc được rằng trong thế kỷ 21, trong 7 tỷ người đang sống ngày nay, có 1 tỷ cho rằng mình không theo một tôn giáo nào, còn 6 tỷ người nhận mình theo một tôn giáo. Nhưng khi chúng ta chứng kiến dường như vẫn có những tín đồ tôn giáo còn dính mắc trong nạn tham nhũng và dường như không giảm bớt đi bản ngã của mình hoặc không chế ngự được các xúc tình tiêu cực trong mình, vậy thì chúng ta có thể đặt câu hỏi niềm tin tâm linh của họ thực sự sâu sắc đến nhường nào. "
Ngài dạy rằng một khi còn bị trói buộc bởi xúc tình tiêu cực, chúng ta sẽ không có hạnh phúc, nhưng khi phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn đối với những người khác, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn và bình an hơn. Sự ghanh đua và ghen tỵ làm gia tăng sợ hãi và nghi ngờ, chúng ta mất đi bằng hữu và trở nên cô đơn. Khi chúng ta tự do khỏi sự sợ hãi, niềm tin và tình bằng hữu sẽ phát triển. Khi tâm bình an, chúng ta sẽ ít lo lắng và tự do khỏi sợ hãi. Ngày nay, các nhà khoa học và nhà tư tưởng cũng đã nhận ra rằng hạnh phúc thật sự đến từ sự bình an nội tâm. "Tâm từ bi mang lại sự bình an nội tâm và nó giúp sức khỏe tốt hơn; vì thế hãy tán thán tâm từ bi".
 Đức Đạt Lai Lạt Ma sau đó đã chuyển sang chủ đề về đạo đức thế tục, ngài tin tưởng rằng trong thế giới vật chất này, chúng ta cần phải tìm những phương cách để thúc đẩy và khích lệ mọi người nuôi dưỡng những giá trị nội tại, nền tảng và nhân văn. Ngài khích lệ thính chúng rằng nếu họ chia sẻ những điều mà họ học hỏi được từ những bài pháp của ngài thì giáo pháp sẽ lan tỏa xa hơn.
Trước khi luận giải về bộ kinh luận của đức Shantideva,  ngài đã thỉnh mời thính chúng trì tụng Bát nhã Tâm kinh bằng tiếng Nga. Ngài đã luận giải Phật giáo Tạng truyền hầu hết khởi nguồn từ truyền thống Đại học Nalanda như thế nào, các đạo sư của truyền thống được an trí trên bức Thangka lớn phía sau ngài. Đại Phương trượng Shantarakshita đến Tây Tạng theo lời thỉnh cầu của Hoàng đế Tây Tạng và ngài đã kiến lập giới luật tự viện, dịch kinh điển và tu học Phật pháp. Để điều phục các lực lượng tiêu cực, Hoàng đế đã thỉnh mời Guru Liên Hoa Sinh Padmasambhava. Sau đó, đệ tử của Shantarakshita là ngài Kamalashila cũng đến Tây Tạng và nhiều người Tây Tạng đến Ấn Độ để nghiên cứu. Sau đó, đạo sư Atisha tu học tại Vikramashila, nhưng có nhân duyên sâu dày với  Nalanda đã đến Tây Tạng. Cả hai truyền thống Sakya và Kagyu đều có khởi nguồn từ giáo pháp của các đạo sư truyền thống Nalanda.
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng Phật giáo Tạng truyền bao gồm đầy đủ các lời dạy của Đức Phật. Truyền thống này được kiến lập trên nền tảng giới luật tự viện về bản chất giống như truyền thống Pali. Ngài nhắc tới buổi gặp gỡ gần đây với chư tăng và học giả Thái Lan và các ngài hiểu được rằng sự thực hành của các ngài tương tự như nhau. Mặc dù truyền thống Tạng truyền còn thực hành trí tuệ Bát nhã và Tantra Yoga Tối thượng, nhưng tất cả đều dựa trên nền tảng của Luật Tạng.
Ngài nhấn mạnh rằng sự chuyển hóa tâm thức là trung tâm của thực hành Phật giáo, đó không phải là thực hành được thực hiện bằng ép buộc. Giáo pháp cần phải được tiếp cận tự nguyện, sử dụng trí tuệ để thấu hiểu tâm nguyện và các con đường dẫn đến mục tiêu giác ngộ tối thượng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma luận giải rằng bản chất của tâm là trí tuệ hiểu biết, và rằng chúng ta phải điều phục, tận trừ các phiền não của tâm, các tư tưởng và xúc tình tiêu cực cũng như các dấu ấn của chúng, đã ngăn chặn chúng ta đạt tới sự toàn tri. Để đạt được, chúng ta cần có trí tuệ hiểu biết tính không. Ngài trích dẫn lời tán thán của đức Je Tsongkhapa lên Đức Phật, "Bất cứ lời dạy nào mà đức Thế tôn tuyên thuyết đều dựa trên pháp duyên sinh, Không có giáo pháp nào của ngài không dẫn đến sự bình an".
Giới thiệu về tác phẩm Nhập Bồ tát hạnh (Bodhicharyavatara) của đức Shantideva, ngài dạy rằng tác phẩm được trước tác vào thế kỷ thứ 8 ở Ấn Độ và là một trong các khai thị trọng yếu để phát triển bồ đề tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thụ nhận luận giải thâm diệu về trước tác này vào năm 1967 từ Khunnu Lama Tenzin Gyaltsen, một Lama Ấn Độ trẻ tuổi đã viếng thăm Tự viện Dzogchen ở vùng Kham, miền Đông Tây Tạng và ngài đã thụ nhận tại đây. Ngài luận giải rằng tiêu đề của tác phẩm có nghĩa là thực hành các công hạnh của một vị Bồ Tát. Những lời dạy nhắc nhở chúng ta quán xét những phẩm chất giác ngộ là gì, giác ngộ có thể chứng đạt được không, và nếu chúng ta thấu hiểu giác ngộ có thể chứng đạt được thì tác phẩm giúp trưởng dưỡng tâm nguyện dẫn dắt chúng sinh cùng đạt tới quả vị giác ngộ.
Chăm chú nghe Đức Dala Lama

Ngày thứ hai, Ngài bắt đầu buổi thuyết Pháp bằng những chia sẻ: "Tôi không có sự gia trì nào để ban cho các bạn; tôi không cho rằng bản thân mình là Đạt Lai Lạt Ma, mà chỉ là một người giống như mọi người khác. Điều quan trọng là chúng ta đều mong cầu có một cuộc sống an lạc và để có được, chúng ta cần trau dồi bản thân mình.”
Ngài dạy rằng trong số những thần thông mà Đức Phật hiển lộ qua các hành động của thân, ngữ và tâm của mình, chính là các lời thuyết pháp mà ngài đã truyền dạy về sự khác nhau giữa những con đường chân chính và lầm sai. Đức Phật đã chỉ rõ làm thế nào để tìm được hạnh phúc và vượt thoát khổ đau. Sự khổ đau mà chúng ta không mong muốn và hạnh phúc mà chúng ta mong muốn, đều phát sinh từ các nhân. Đau khổ tới chủ yếu do sự thiếu hiểu biết. Mặc dù chúng ta tìm cầu hạnh phúc, nhưng bởi vì vô minh chúng ta có xu hướng tạo ra các nhân của đau khổ. Vì vậy, cần phải biết điều gì mang lại cho chúng ta hạnh phúc và điều gì đưa đến đau khổ. Đức Je Tsongkhapa đã tán thán Đức Phật, "Trong tất cả các công hạnh giác ngộ của đức Thế tôn, khẩu của ngài là tối thượng, do đó bậc hiền trí luôn khắc ghi đến giáo pháp của ngài.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma luận giải rằng chúng ta đã tạo ra cho bản thân sự khổ đau bằng cách bám chấp vào hiện tướng của sự vật. Những gì chúng ta cần là thấu hiểu bản chất thực sự của sự vật. Để đạt được, chúng ta cần phải sử dụng trí tuệ của mình một cách tối đa. Chúng ta cần phải tu học, quán xét và điều phục sự vô minh trong mình. Ngài không luận giải toàn bộ kinh luận trong dịp này, ngài dạy, "Các bạn có bộ kinh luận, hãy đọc, làm cho bản thân mình quen thuộc, thấm nhuần và đọc lại nhiều lần cho tới khi các trang trở nên bị chuyển màu vì sử dụng nhiều.”
Đức Shantideva không trước tác bộ kinh luận để giải trí. Nội dung của kinh luận là về những lời Phật dạy và sau đó là các luận giải của những bậc đạo sư. Ngài tuyên bố rằng ngài trước tác bộ luận là để tâm thức mình thấm nhuần với lời kinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khuyên cần phải sử dụng trí tuệ để hiểu những lời dạy trong kinh và kiên trì thấu hiểu. Ngài một lần nữa trích dẫn lời đạo sư Je Tsongkhapa: "Vì vậy, bậc hiền trí có tâm nguyện thực hành điều phục tâm bằng trí tuệ.” Lời dạy này có nghĩa là chúng ta nên suy xét về lời kinh, không chỉ lặp đi lặp lại với chỉ riêng mình, mà cần đặt câu hỏi, quán sát ý nghĩa lời kinh, đối chiếu với các kinh nghiệm của riêng của mình và so sánh những gì chúng ta khám phá được với kinh nghiệm của người khác. Cuối cùng, điều này sẽ mang lại cho chúng ta tới điều quan trọng là trưởng dưỡng một trái tim nồng ấm.
Trong tiếng Tây Tạng, từ thiền định có ý nghĩa làm cho tâm mình thấm nhuần với giáo pháp và những con đường thực hành. Đức Đạt Lai Lạt Ma so sánh với việc đào tạo một phi công. "Khi lần đầu tiên nhìn vào buồng lái ta cảm thấy hoang mang và mất tự chủ, nhưng cuối cùng, thông qua rèn luyện và quen thuộc tan nắm vững những gì cần phải được thực hiện. Quý vị cần phải sử dụng trí thông minh của mình."
Chuyển từ chương thứ nhất tới chương thứ chín, ngài đã tụng đọc, "Tất cả những thực hành này đều được truyền dạy bởi đức Đại Hùng lực vì lợi ích của trí tuệ tối thượng"
Bởi vì vô minh, chúng ta cần phải phát triển trí tuệ nội chứng; chúng ta cần phải thấu hiểu bản chất thực sự của sự vật. Giáo dục là quan trọng vì đó là cách chúng tôi thu nhận kiến ​​thức.Trong trường hợp này, chúng ta cần phải điều phục sự thiếu hiểu biết về nhân quả và thực tướng của sự vật. Tất cả những ai mong muốn an bình sự khổ đau cần phải phát triển trí tuệ. Chương chín đề cập đến hai loại người: phàm phu và hành giả yogi. Thuật ngữ Tây Tạng cho hành giả bao gồm hai nội dung, một là ý nghĩa đích thực và thứ hai là thấm nhuần được ý nghĩa đó. Vì vậy, hành giả yogi là những bậc thấm nhuần được ý nghĩa đích thực. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một so sánh giữa người bình thường hôm nay, những người không biết suy xét và chỉ thụ hưởng những thứ họ nhìn thấy hoặc nghe thấy, và các nhà khoa học, những người không hài lòng với những phạm vi đó bởi vì họ liên tục tìm hiểu để thấu hiểu về thực tại.
Đội quân đầu bếp phục vụ hội nghị
Trở lại chương một, những lợi ích của tâm nguyện lợi tha, bồ đề tâm giác ngộ đã được triệu thỉnh: “ Khát ngưỡng tự do và dẫn dắt chúng sinh tới tự do, làm đoạn trừ những nhân cho sự tái sinh vào cõi thấp. Tất cả các mục đích cho dù tạm thời hay tối thượng đều có thể được viên mãn thông qua bồ đề tâm nguyện. Vì vậy, con xin đỉnh lễ lên bồ đề tâm. " Ngài trích lời của đại thành tựu giả Yogi thế kỷ XIX, Shakya Shri: "Khi con hoan hỷ, con hồi hướng tất thảy công đức cho chúng sinh; khi không hạnh phúc, con xin nguyện nhận sự đau khổ của tất cả chúng sinh, và qua đó xin nguyện đem công đức này làm cạn đi đại dương của khổ đau."
Xác định bản chất của bồ đề tâm trong Tràng hoa của sự Thực chứng Quang minh, đức Di Lặc đã dạy: "Đó là tâm nguyện toàn hảo để chứng đạt Phật quả vì lợi ích tất thảy chúng sinh. Khi trưởng dưỡng bồ đề tâm, trước tiên hãy khai triển tâm từ bi, mong nguyện giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau, trên nền tảng đó khởi phát tâm nguyện thành Phật.”
Tâm tỉnh thức gồm hai phần: tâm nguyện và tâm hạnh. Cũng giống như mong muốn đi và hành động đi. Quý vị có một điểm đến trong tâm và mong muốn đến đó; sau đó quý vị thực sự khởi hành.

Sau khi thính chúng trì tụng Bát nhã tâm Kinh, ngài yêu cầu thính chúng tụng đọc các câu kệ của chương hai và đến câu 23 của chương ba trong Nhập Bồ tát hạnh, bởi đó bao gồm các câu Bảy chi thực hành. Về khóa lễ để khai triển bồ đề tâm nguyện và bồ đề tâm hạnh, ngài dạy rằng có thể được cử hành trước một biểu tượng nhưng sẽ hiệu quả hơn nếu được cử hành dưới sự hướng đạo của một bậc thầy. Ngài cũng chỉ rõ hai câu kệ đầu mà mọi người trì tụng là quy y Phật, Pháp, Tăng và hai câu cuối là khai triển bồ đề tâm chứng đạt giác ngộ. Sau đó trì tụng hai câu kệ từ chương ba, phát sinh bồ đề tâm nguyện và thụ giới bồ tát. "Nguyện con có thể chứng đạt giác ngộ vì lợi ích của hết thảy chúng sinh; và nguyện con có thể tận trừ tất cả phiền não và chứng đạt được tất cả những phẩm chất giác ngộ."
"Chúng ta thấy rằng giác ngộ là có thể" ngài chia sẻ, "bởi vì không có sự khác biệt giữa bản chất tính không của tâm chúng ta và tâm của một vị Phật. Bởi vì tâm không tồn tại cố hữu, nên chúng ta có thể tận trừ các phiền não. Chúng hòa tan vào như thị và khi đó chúng ta được tịnh hóa khỏi những bất thiện tiêu cực. Và khi tịnh hóa được những tiêu cực, chúng ta cũng phát triển những phẩm chất giác ngộ của một vị Phật. "
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp tục thảo luận bản chất tịnh quang và sự tỉnh thức của tâm, ngài chỉ ra rằng không có gì có thể chấm dứt tính tịnh quang và tỉnh thức cho nên những ô nhiễm của tâm có thể được tận trừ.
Về truyền thừa pháp thực hành đức Phật Dược Sư mà ngài sẽ truyền trao quán đỉnh, ngài chỉ dạy rằng pháp thực hành này khởi xuất từ linh kiến thanh tịnh của  đức Dalai Lama đời thứ V. Ngài đã hài ước rằng trong khi các đời Đạt Lai Lạt Ma thứ II, III, V và XIII đều có các linh kiến thì đời thứ XIV lại không có gì cả mặc dù đời này dường như có vẻ là đời hóa thân được biết tới nhiều nhất.
Về những lợi lạc của pháp thực hành đức Phật Dược Sư, Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng nếu chúng ta thực hành và trì giữ việc nhập thất, chúng ta có thể chứng đạt lợi lạc để vượt qua bệnh tật.
Vào buổi chiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma khẩu truyền những bài kệ của các chương thứ hai và thứ ba Nhập Bồ tát Hạnh, thi thoảng thoảng dừng lại để luận giảng. Ngài dạy rằng, "Điều quan trọng là có sự tự tin về khả năng đạt đến giác ngộ. Cội rễ của tâm tỉnh thức là lòng đại bi và để phát triển trước tiên quý vị phải hiểu được khổ đau là gì, luôn khắc ghi trong tâm rằng Đức Phật sẽ không thuyết dạy về khổ đau nếu chúng ta không có cơ hội để giải thoát khỏi nó. "Quý vị càng quan tâm tới chúng sinh khác, cảm thấy họ gần gũi với mình, tâm nguyện của quý vị muốn giải thoát họ khỏi khổ đau sẽ càng mạnh mẽ. Một trong những phương pháp để phát triển tâm từ bi và tâm tỉnh thức, Phương pháp Bảy thứ lớp Nhân quả, nhấn mạnh tới lòng tốt của những chúng sinh khác, ngay cả khi họ không phải là cha mẹ của bạn. Tuy nhiên, cả Bồ tát Long Thọ và đức Shantideva đều sử dụng các phương pháp cho-nhận, trao đổi bản thân cho người khác. "
 Ngài đã khuyến lệ rằng nên thực hành đều đặn hàng ngày, dần dần sẽ có sự tiến bộ. Liên hệ với sự thực hành của chính bản thân, ngài chia sẻ: "Tôi từng tôn kính bồ đề tâm, nhưng khi khai triển trong thực tế, tôi lại cảm thấy dường như xa lạ. Tuy nhiên, sau khi nghe luận giải về Nhập Bồ tát hạnh, tâm tỉnh thức trở nên gần gũi hơn và sự khai triển, trưởng dưỡng bồ đề tâm bắt đầu trở thành hiện thực.
Phúc Cường trích dịch

No comments:

Post a Comment