HỎI:
Ngài đã từng nói rằng theo triết lý Đạo Phật không có đấng Tạo Hóa, không có
Thượng Đế tạo dựng, và điều này có thể bắt đầu làm cho nhiều người chấm dứt
niềm tin trong quan kiến thiêng liêng. Ngài có thể giải thích sự khác
biệt giữa Đức Phật Nguyên Sơ Kim Cương Thừa và một Thượng Đế Tạo Hóa không?
ĐỨC ĐẠT
LAI LẠT MA: Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật
Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thân – không gian của tính
không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnh và nhiễm ô, là hòa tan.
Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điển và Mật điển. Tuy nhiên, trong
phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân
trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản
chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân
hồi và niết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này. Ngay cả
Tân Phái Diễn Dịch cũng đã đi đến kết luận rằng “thể trạng giải thoát” của một hành
giả Đại Du Già – Đại Du Già bao hàm ở đây là thể trạng của hành giả đã đạt đến
tầng bậc trong thiền quán nơi mà những kinh nghiệm vi tế nhất của linh quang đã
được thân chứng – mà điều ấy cho đến khi nào hành giả tiếp tục trong không gian
căn bản này người ấy sẽ duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi bất cứ ngăn che chướng
ngại nào của tâm, và chìm sâu trong thể trạng của đại lạc.
Do
thế, chúng tôi có thể nói rằng, cội nguồn căn bản ấy, linh quang, là gần với
khái niệm Đấng Tạo Hóa, vì tất cả mọi hiện tượng, cho dù chúng thuộc luân hồi
hay niết bàn, đều phát khởi từ trong ấy. Nhưng chúng tôi phải hết sức cẩn
thận trong việc nói về cội nguồn này, chúng tôi không được dẫn vào trong sai
lầm. Tôi không muốn nói rằng có một sự hiện hữu ở nơi nào đấy, như là ở
đấy, có một loại linh quang tập hợp, tương tự khái niệm không phải Phật Giáo về
Phạm thiên như một nền tảng. Chúng tôi không được thần tượng, sùng bái
không gian rực rở này. Chúng tôi phải thấu hiểu rằng khi chúng tôi nói về
linh quang tối hậu hay cố hữu, là chúng tôi đang nói trên một mức độ cá
nhân[1].
Giống
như thế, khi chúng tôi nói về nghiệp báo như nguyên nhân của vũ trụ, chúng tôi
loại trừ khái niệm của một tổng thể đặc thù gọi là nghiệp tồn tại một cách hoàn
toàn độc lập. Đúng hơn, những dấu vết nghiệp tập thể - cộng nghiệp, và
nghiệp cá thể - biệt nghiệp, là nguyên nhân ban sơ của việc hình thành nên một
thế giới. Trong phạm vi mật tông, khi chúng tôi nói rằng tất cả các thế
giới xuất hiện ra từ linh quang, chúng tôi không quán tưởng cội nguồn này như
một thực thể đặc thù, mà như linh quang tối hậu của mỗi chúng sinh. Chúng
tôi cũng có thể, trên căn bản của sự thanh tịnh cốt yếu của nó, thấu hiểu rằng
linh quang này là Đức Phật Nguyên Sơ. Mọi tầng bậc tạo nên sự sống của
mỗi chúng sinh – chết, trung ấm thân, và tái sinh – đại diện không gì hơn sự
biểu hiện đa dạng năng lực của linh quang. Nó là cả tâm thức và năng
lượng vi tế nhất. Linh quang càng mất sự vi tế của nó bao nhiêu, chúng ta
tiếp nhận những kinh nghiệm biểu lộ sự định hình càng thô thiển hơn bấy nhiêu.
Trong
cách này, chết và trung ấm thân là những thời khắc nơi mà những biểu lộ thô
thiển bắt nguồn từ linh quang được tái hòa tan. Vào lúc chết, chúng ta
trở lại cội nguồn nguyên sơ, và từ đấy có một thể trạng hơi thô thiển hơn nổi
lên để hình thành trạng thái trung ấm trước khi tái sinh. Tại trạng thái
tái sinh, linh quang hiển hiện trong sự hóa thân vật lý. Vào lúc chết
chúng ta trở lại nguồn cội này. Và tiếp diễn như thế. Khả năng để
thực chứng linh quang, cũng gọi là Đức Phật Nguyên Sơ, tương đương với sự thân
chứng niết bàn, trái lại bản chất vô minh si ám khiến chúng ta lang thang vần
xoay trong những thế giới khác nhau của vòng luân hồi sinh tử (gồm sáu cõi là
địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, a tu la, và cõi thiên).
Đây
là việc chúng tôi hiểu khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ như thế nào. Sẽ là
một sai lầm nghiêm trọng, nếu nhận thức điều này như một sự hiện hữu độc lập và
tách biệt với sự không có bắt đầu của thời gian (vô thủy). Nếu chúng ta
đã phải chấp nhận khái niệm của một tạo hóa độc lập, những giải thích trong
Thích Lượng Luận, “Tóm Lược Những Tri Thức Vững Chắc” của Pháp Xứng, và trong
chương thứ chín tác phẩm của Tịch Thiên, đã hoàn toàn bác bỏ sự tự tồn tại của
tất cả mọi hiện tượng, sẽ bị phủ nhận. Đến lượt điều này sẽ bác bỏ khái
niệm Đức Phật Nguyên Sơ. Quan điểm của Đạo Phật không chấp nhận những giá
trị xác định không đứng vững trên sự thẩm tra hợp lý. Nếu một kinh điển
diễn tả Đức Phật Nguyên Sơ như một thực thể độc lập, thì chúng ta phài có thể
làm sáng tỏ sự thừa nhận này mà không cần phải chấp nhận nó một cách lý
thuyết. Chúng ta gọi loại kinh điển này là kinh điển “có thể giải thích
được” (kinh bất liễu nghĩa).
HỎI:
Quan tâm trong những khám phá của vật lý học thiên thể hiện đại và thuyết vụ nổ
lớn “Big bang” khơi mở cả một sự hấp dẫn lớn trong vũ trụ và một cuộc thăm dò
điều tra bởi những thành viên trong thế hệ của chúng ta về cội nguồn của họ, số
phận của họ, và ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thuyết “Big bang”đã có một tác
động nổi bật trong cung cách nhìn vào vấn đề và bản chất tự nhiên; nó đã giới
thiệu những sáng kiến nhận thức mới đáng kể. Sự hình thành những cấu trúc
của vũ trụ, với sự thể hiện chức năng phụ thuộc tương liên (duyên sinh), và với
sự nghiên cứu tiếp tục để khơi mở, dường như là một cội nguồn bất tận của kỳ
diệu. Giống như tất cả những truyền thống tâm linh, Đạo Phật chuyển tải
một sự huyền bí vũ trụ. Tuy nhiên, Đạo Phật phủ nhận quan điểm về đấng
tạo hóa. Tại sao?
Hầu
hết các nhà khoa học phương Tây nghĩ rằng sự sống và tâm thức là một kết quả
diệu kỳ của sự tiến hóa vật chất của vũ trụ, và tuy thế họ không biết làm thế
nào cũng như không biết tại sao vấn đề nảy ra trong một cung cách như vậy lại
hoàn thành những điều kiện cần thiết để làm nên sự sống và tâm thức.
Những gì người ta biết là những điều kiện này rất là nghiêm ngặt, tuy thế đã
hoàn tất trong vũ trụ của chúng ta trong một cung cách không thể tưởng tượng
nổi. Ngài có một quan điểm rất khác biệt với đề tài này. Do vậy,
ngài có thể vui lòng nói với chúng tôi về tâm thức trong sự liên hệ của nó với
vật chất và vũ trụ không?
ĐỨC
ĐẠT LAI LẠT MA: Tại sao không thể có sự sáng thế trong Đạo Phật? Như được
nói rằng người ta không thể tìm thấy chúng sinh trong sự hình thành vũ trụ vì
một lý do căn bản rằng những nguyên nhân không có sự bắt đầu (vô thỉ).
Nếu có sự bắt đầu của vũ trụ, cũng sẽ có sự bắt đầu của tâm thức. Nếu
chúng ta chấp nhận một sự bắt đầu của tâm thức, chúng ta cũng phải chấp nhận
rằng nguyên nhân của nó có một sự khởi đầu, một nguyên nhân đột khởi sản sinh
tâm thức; điều này sẽ đưa đến nhiều câu hỏi to lớn khác. Nếu tâm thức đã
sinh khởi mà không có nguyên nhân, hay từ một nguyên nhân thường còn, nguyên
nhân ấy sẽ phải tồn tại trên một căn bản thường hằng, luôn luôn, hay hoàn toàn
không hiện hữu, mãi mãi. Thực tế rằng một hiện tượng tồn tại từng thời
điểm chứng tỏ rằng nó tùy thuộc trên nhân duyên (nguyên nhân và điều
kiện). Khi tất cả mọi điều kiện được gặp gở, hiện tượng được sản
sinh. Khi nhưng nguyên nhân đó vắng mặt hay không hoàn toàn, hiện tượng
sẽ không xuất hiện. Như những nguyên nhân không có bắt đầu và trãi ngược
đến vô cùng, điều giống như thế cũng áp dụng cho chúng sinh. Sự sáng thế
của tạo hóa vì thế không thể đứng vững.
Bây
giờ hãy đề chúng ta lưu tâm đến một hiện tượng đặc thù, thí dụ một sông băng
(glacier): nó thật sự có sự bắt đầu. Nó được tạo ra như thế nào?
Thế giới bên ngoài xuất hiện như một kết quả của những hành vi của chúng sinh
sử dụng thế giới này. Những hành vi này, hay nghiệp báo, lần lượt sinh
khởi trong những khuynh hướng và động cơ của những chúng sinh ấy, những
kẻ chưa nắm lấy được sự kiểm soát tâm thức của chính họ.
“Đấng
tạo hóa của thế giới”, một cách căn bản, là tâm thức. Trong kinh điển,
tâm thức được diễn tả như một tác nhân. Trong ấy nói rằng, tâm thức không có sự
khởi đầu, nhưng chúng ta phải phân biệt ở đây giữa tâm thức thô và tâm thức vi
tế. Nhiều tâm thức thô xuất hiện phụ thuộc trên những tập họp uẩn vật lý,
của thân thể. Đây là bằng chứng khi chúng ta lưu tâm đến những thần kinh
khác biệt và chức năng của não bộ, nhưng chỉ vì những điều kiện vật lý được
thấy không có nghĩa là điều này đủ để sản sinh một nhận thức. Nhằm để cho
một nhận thức là điều sẽ có năng lực để phản chiếu và biết một đối tượng sinh
khởi, nó phải có một nguyên nhân có cùng thể chất. Nguyên nhân có cùng
thể chất nền tảng, của cùng vật chất như kết quả của nó, trong trường hợp này
sẽ là tâm thức vi tế. Đấy là tâm thức giống nhau này hay tâm vi tế mà
chính nó sẽ thâm nhập những tế bào của cha mẹ tại thời khắc thụ thai. Tâm
vi tế có thể không có sự bắt đầu. Nếu nó có một sự bắt đầu, tâm thức sẽ
phải được sinh ra với điều gì đấy không phải là tâm thức. Theo mật điển
Thời Luân (Kalachakra Tantra), người ta phải ngược về những hạt không gian (vi
trần) để tìm ra những nguyên nhân căn bản cùng thể chất cua thế giới vật lý
ngoại tại cũng như của thân thể chúng sinh.
Vũ
trụ học Phật Giáo thiết lập chu trình của vũ trụ trong cung cách sau đây:
đầu tiên có một thời điểm cấu tạo (thành), rồi có thời gian mà vũ trụ tồn tại
(trụ), rồi một thời gian khác mà nó bị phá hủy (hoại), theo sau bởi một thời
điểm của trống rỗng (không) trước khi cấu tạo một vũ trụ mới. Suốt thời
gian của sự trỗng rỗng này, hạt không gian tồn tại, và từ những hạt không
gian này một vũ trụ mới sẽ được hình thành. Chính trong những hạt không
gian này chúng ta thấy nguyên nhân nền tảng cùng thể chất của toàn thể thế giới
vật lý. Nếu chúng ta muốn diễn tả cấu tạo của vũ trụ và thân thể vật lý
của con người, tất cả chúng ta cần làm là phân tích và thấu hiểu cung cách mà
trong ấy khả năng tự nhiên của của những hóa chất khác nhau và những yếu tố
khác cấu thành vũ trụ ấy đã có thể tạo hình từ những hạt không gian này.
Trên căn bản khả năng đặc thù của những hạt này mà cấu trúc của vũ trụ này và
của thân thể con người hiện diện trong ấy đã xãy ra. Nhưng từ thời khắc
mà những yếu tố tạo thành thế giới bắt đầu làm rõ lên những kinh nghiệm khác
nhau của khổ đau và hạnh phúc trong những chúng sinh, chúng ta phải giới thiệu
khái niệm nghiệp báo – đấy là, những hành vi tích cực và tiêu cực đã diễn ra và
tích tập trong quá khứ. Thật khó để mà quyết đoán nơi nào mà những biểu
hiện tự nhiên khả năng của những yếu tố vật lý chấm dứt và tác động của nghiệp
báo bắt đầu – nói cách khác, kết quả những hành vi quá khứ của chúng ta – Nếu
chúng ta tự hỏi mối liên hệ gì có thể có giữa nghiệp báo và môi trường ngoại
tại này được hình thành bởi những định luật tự nhiên, thì đấy là lúc để giải
thích nghiệp báo là gì.
Nghiệp
báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại
nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần của là ý chí hay chủ
tâm (ý). Cũng hiện hữu những nghiệp báo thân thể (thân) và lời nói
(khẩu). Để thấu hiểu mối liên hệ giữa những nghiệp báo thân, miệng và ý
này cùng thế giới vật chất, chúng ta phải liên hệ đến mật điển tantra.
Mật điển Thời Luân đặc biệt giải thích rằng, trong thân thể chúng ta có thể
được tìm thấy tại những mức độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế, năm yếu tố tạo nên
vật chất của thế giới ngoại tại. Vì thế, trong phạm vi này, tôi tin rằng,
chúng ta phải hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp báo thân, miệng và ý cùng
những yếu tố ngoại tại
Tác
giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển
ngữ: Tuệ Uyển – 08/05/2011
No comments:
Post a Comment